VÂNG PHỤC LÀ TRƯỜNG HỌC TỰ DO TRONG TÌNH YÊU

Ba lời khuyên Phúc Âm: vâng phục, khó nghèo và khiết tịnh được xem là ba điều trọng yếu nhất làm nên căn tính đời sống thánh hiến, đó là con đường giúp người tu sĩ bước theo sát Đức Kitô một cách trọn vẹn. Theo thánh Tôma Aquinô: “Trong ba lời khấn tu trì, lời khấn vâng phục là nhân đức lớn nhất” (Maximum est), bởi nó đụng chạm trực tiếp đến cốt lõi của con người, đó là ý chí tự do. Trong bài diễn văn ngày 18 tháng 9 năm 2025, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã nhấn mạnh:  “Vâng phục là trường học của tự do trong tình yêu”. Phải chăng điều Đức Thánh Cha nhấn mạnh là một nghịch lý? Nếu không nghịch lý thì đâu là ý nghĩa sâu xa mà Đức Thánh Cha mời gọi những người sống đời thánh hiến trong thế giới hôm nay?

Đức Thánh Cha mời gọi các tu sĩ học nơi mẫu gương vâng phục tuyệt hảo là Đức Giêsu:“Tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 5,30). Vâng phục nơi Đức Giêsu không hủy diệt tự do, trái lại diễn tả tự do đích thực, tự do để gắn bó trọn vẹn với ý muốn của Chúa Cha trong tình yêu cứu độ. Và Đức Thánh Cha nhắc đến lời dạy của thánh Âu-tinh: “Vâng phục chính là con gái của đức ái… gốc rễ ẩn giấu, còn hoa trái thì tỏ lộ ra”.

Trước hết, Đức ái là gốc rễ, còn vâng phục là hoa trái cụ thể của tình yêu. Một tình yêu chỉ giữ trong lòng mà không dẫn đến hành động vâng phục thì vẫn chưa trọn vẹn. Chính khi người tu sĩ chọn vâng phục, họ đang cho thế giới thấy một minh chứng sống động của tình yêu, của Đức Ái: tình yêu trở thành hành động, tình yêu trở thành sự sống trao ban.

Ngày nay, nhiều người cho rằng vâng phục đồng nghĩa với đánh mất tự do. Nhưng Đức Thánh Cha lại khẳng định: Vâng phục là sự lắng nghe tích cực và quảng đại với tha nhân”. Trong nghĩa sâu xa, vâng phục chính là một hành vi yêu thương cao cả: dám chết đi cho cái tôi ích kỷ để chính mình được lớn lên, cộng đoàn được hiệp nhất và thế giới được sống. Và hơn hết, vâng phục thể hiện đức tin và tình yêu vào Thiên Chúa cách tuyệt đối để thánh ý Chúa được thực hiện trong mọi sự. Như vậy, tự do đích thực không nằm ở việc muốn làm gì thì làm, nhưng ở khả năng chọn lựa điều tốt, điều đẹp ý Chúa, điều đem lại sự sống và tình yêu cho tha nhân. Nhờ đó, đời dâng hiến của người tu sĩ trở nên một của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa và mưu ích cho tha nhân bằng con đường tự hiến qua đời sống vâng phục.

Tiếp đến, “Hoa trái thì tỏ lộ ra”, Đức Thánh Cha mời gọi các tu sĩ cần diễn tả tình yêu ấy cách cụ thể qua hai việc: Làm cho thế giới tái khám phá giá trị của sự hy sinh. Và vượt qua những cảm xúc nhất thời, để xây dựng mối tương quan bền vững dựa trên lòng trung tín. Làm được hai việc đó, cộng đoàn trở thành nơi trưởng thành thiêng liêng, nơi mỗi người được luyện tập sống vâng phục trong tình yêu kiên vững chứ không phải tình cảm tạm bợ. Như vậy, vâng phục không hủy hoại tự do nhưng là Trường học của tự do trong tình yêu”. Trong trường học ấy, người tu sĩ từng ngày được đào luyện để nên giống Đức Kitô: lắng nghe, hiến dâng và yêu thương đến cùng. Hiến pháp Dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu Linh Mục, điều 33 khoản 4: cũng mời gọi các chị em “Lấy tinh thần Đức Tin và Đức Ái đảm nhận việc vâng phục”.

Là một tu sĩ, khi lắng nghe lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha về đức vâng phục như một hành vi yêu thương và như một trường học của tự do trong tình yêu, tôi nhận ra đây không chỉ là một giáo huấn dành chung cho đời sống thánh hiến, nhưng còn là lời chất vấn trực tiếp đến hành trình dâng hiến còn non trẻ của chính tôi. Hành trình ấy chưa đủ dài và đủ sâu, nhưng lại chất chứa nhiều ưu tư và thao thức; là lời chất vấn tôi làm sao để thực sự theo sát Đức Kitô trong thời đại hôm nay. Lời khấn vâng phục là một thách đố với người thánh hiến và với tôi. Trong hành trình dâng hiến, tôi đã có những trải nghiệm không ít những biến cố vui buồn, trái ý, thậm chí có những giây phút tôi tưởng như không thể vượt qua. Thế nhưng, chính trong những hoàn cảnh ấy, nhờ chiêm ngắm mẫu gương sống động và tuyệt hảo nơi Đức Giêsu, Đấng đã cho tôi nguồn sống và sức mạnh để tôi tiếp tục chiến đấu và vượt qua trong bình an. Chính nơi con người Đức Giêsu “Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8). Và khi nhìn lại chương trình lịch sử ơn gọi, tôi nhận ra Thiên Chúa yêu thương huấn luyện người Chúa tuyển chọn không phải qua những thành công, vừa ý, nhưng qua những thử thách và đau khổ. Đó cũng là động lực để tôi tin tưởng, phó thác cuộc đời mình vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Nhờ những giây phút chiến đấu, giằng co nội tâm để từ bỏ ý riêng, từ bỏ con đường mình yêu thích, con người mình muốn sống, công việc mình muốn làm… để chọn vâng theo thánh ý Chúa, tôi nhận ra giá trị ý nghĩa của lời khấn vâng phục. Từ đó, tôi dần học được bài học quan trọng: vâng phục ý Chúa trong mọi sự. Có những lúc khủng hoảng, chao đảo… nhưng giống như Phêrô và các môn đệ trên biển cả giữa sóng biển sắp chìm, tôi cảm nhận bàn tay yêu thương của Chúa đang nắm lấy kéo tôi lên, dẫn dắt tôi đến sự trưởng thành trong đức tin và phó thác.

Tôi nhớ đến lời dạy trong Sách Gương Chúa Giêsu: “Bao lâu còn ràng buộc bởi bất cứ vật gì, con người vẫn chưa có thể tự do bay lên cùng Chúa.” Thật vậy, chính những ràng buộc của ý riêng, của những bám víu vào tình cảm hay thành công đã khiến lòng tôi nặng nề, không thể tự do để yêu Chúa. Chỉ khi chấp nhận buông bỏ, chấp nhận vâng phục trong tự do, tôi mới cảm thấy mình được bình an và gần Chúa hơn. Tôi nghiệm ra rằng vâng phục không phải là sự chối bỏ giá trị bản thân, nhưng là một cách sống lệ thuộc và phục tùng vào ơn Chúa. Chính trong sự lệ thuộc đó, tôi lại tìm thấy một sự tự do sâu xa: không còn loay hoay với cái tôi chật hẹp, mà được mở ra cho một tình yêu lớn lao hơn. Những kinh nghiệm đau khổ trong hành trình dâng hiến đã dạy tôi: bình an không hệ tại ở việc ý mình được thực hiện, nhưng hệ tại tôi biết thành tâm tận hiến, phó mặc cho thánh ý Chúa và không tìm tư lợi trong bất cứ điều gì. Khi tôi tập sống như thế, tôi nhận được sự bình an sâu thẳm và kiên vững giữa những thử thách. Đặc biệt khi tôi được sai đến và phục vụ những anh em đồng bào tại vùng đất mang tên Đạ Tông, giữa núi rừng Tây Nguyên mênh mông, tôi đã nhận được biết bao giá trị ý nghĩa trong cuộc sống, nhất là bài học về sự tự do đích thật. Với sự đơn sơ, hiền lành, chân chất, sống chan hòa với thiên nhiên của những con người nơi đây, đã dạy tôi bài học về sự từ bỏ, không để mình bị lệ thuộc vào những của cải vật chất, danh vọng nhưng thanh thoát và an vui với những gì Chúa ban trong hiện tại. Không bon chen, ích kỷ nhưng chia sẻ và trao ban.

Như thế, vâng phục thật sự trở thành Trường học của tự do trong tình yêu” cho chính tôi. Nơi trường học ấy, tôi không còn hiểu vâng phục như một sự mất mát, nhưng như một con đường giải thoát, nơi tôi được rèn luyện để yêu mến Chúa và tha nhân cách chân thành hơn. Nhờ đó, tôi được lớn lên trong đức tin, trong sự trưởng thành nội tâm, và trong khả năng yêu thương quảng đại.

Ước mong, qua lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Lêô XIV: “Vâng phục là trường học của tự do trong tình yêu” cho mỗi người tu sĩ trong đó có tôi, sẽ trở thành chứng tá nhỏ bé nhưng chân thật cho thế giới hôm nay rằng, tự do trong tình yêu chỉ đạt đến viên mãn khi chúng ta biết sống vâng phục bằng sự tin tưởng, hiệp thông và trao hiến cho Thiên Chúa và tha nhân.

Lạy Chúa Giêsu, Đấng đã vâng phục Chúa Cha cho đến chết trên thập giá, con xin dâng lên Chúa trọn vẹn hành trình dâng hiến của con, dù còn nhiều yếu đuối, giới hạn. Xin cho con học nơi Chúa bài học vâng phục trong tình yêu, để mỗi ngày biết chết đi cho ý riêng mình, biết lắng nghe và đón nhận thánh ý Chúa qua Bề trên, qua chị em, và biết sống trung tín trong mọi hoàn cảnh. Xin cho con cảm nghiệm sự tự do đích thực không phải trong việc làm theo ý con, nhưng trong việc để Chúa dẫn dắt con đi con đường Ngài muốn. Xin biến đổi những thử thách và những trái ý trong đời sống con thành cơ hội lớn lên trong đức tin, để yêu Chúa và tha nhân cách trọn vện, đơn sơ và quảng đại hơn. Lạy Chúa, xin cho đời dâng hiến của con, trở nên một chứng tá nhỏ bé về tình yêu và sự tự do nảy nở từ đức vâng phục. Amen.

Sương Mai